Vai trò của phụ nữ trong cơ quan dân cử: Còn nhiều thách thức

Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII là 24,4%, cho thấy sự sụt giảm đáng kể, thấp nhất trong bốn nhiệm kỳ gần đây. Điều này cho thấy, vai trò của phụ nữ trong tham gia lĩnh vực chính trị nói chung và trong cơ quan dân cử nói riêng đang gặp nhiều thách thức.

Một phiên thảo luận tại hội trường của kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII (Ảnh: Trần Hải).

Tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan dân cử: Còn khoảng cách

Chủ tịch Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Bộ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phạm Thị Hải Chuyền cho biết, mặc dù tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở từng nhiệm kỳ có tăng nhưng chưa thật bền vững. Cụ thể, số nữ đại biểu Quốc hội chiếm 21,77% ở khóa VII; 18% ở khóa VIII; 18,84% ở khóa IX; 26,2% ở khóa X; 27,31% ở khóa XI; 25,76% ở khoá XII, 24,4% ở khóa XIII.

Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII cho thấy sự sụt giảm đáng kể và thấp nhất trong bốn nhiệm kỳ gần đây. Trong vòng 20 năm (từ năm 1987 đến năm 2007), đại biểu Quốc hội là nữ chỉ tăng được gần 4%.

Đây là thông tin từ tọa đàm “Vai trò của truyền thông nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong bầu cử đại biểu quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp” do Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức.

Theo Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền, trong cơ quan dân cử ở địa phương, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2011-2016 cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 25,17%, cấp quận, huyện, thị xã là 24,62% và cấp xã, phường, thị trấn là 21,71%. Kết quả trên cho thấy đã có sự gia tăng so với ba nhiệm kỳ gần nhất. Tuy nhiên, qua mỗi nhiệm kỳ, các tỷ lệ này chỉ tăng dao động trong khoảng trên, dưới 2%.

Nhìn chung, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và HĐND các cấp so với mục tiêu của Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 vẫn còn một khoảng cách khá xa. Việt Nam cần có những bước đi vững chắc hơn, những giải pháp đột phá, mạnh mẽ hơn nữa để thực hiện mục tiêu đạt 35% trở lên nữ đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp của nhiệm kỳ 2016 - 2021 như Nghị quyết số 11 đã đặt ra.

Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 vừa qua đã tạo thêm những điểm sáng mới trong việc thực hiện mục tiêu về tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. Kết quả bầu cử đại hội Đảng các cấp cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy ở cả bốn cấp của nhiệm kỳ này đều đạt cao hơn so với nhiệm kỳ trước.

Cụ thể, tỷ lệ cấp ủy viên là nữ cấp xã chiếm 19,69% (tăng 1,59%); cấp huyện đạt 14,3% (tăng 0,3%); cấp tỉnh đạt 13,3% (tăng 1,9%). Cấp Trung ương có 17/180 ủy viên chính thức, đạt 9,4% (tăng 0,8%). Đặc biệt, trong nhiệm kỳ của Đại hội XII, có ba đồng chí nữ tham gia Bộ Chính trị, chiếm 15,7%. Hy vọng, thành tựu trên sẽ tạo đà để thực hiện đạt chỉ tiêu về tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Nữ Bộ trưởng nhấn mạnh, chỉ còn gần ba tháng nữa sẽ bước vào kỳ bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Để phấn đấu đạt 35% trở lên đại biểu nữ trong Quốc hội và HĐND các cấp, phải bảo đảm giới thiệu nữ ứng cử viên cao hơn tỷ lệ nói trên. Số liệu của các kỳ bầu cử trước cho thấy, trong danh sách ứng cử chính thức vào Quốc hội, chỉ có 31% ứng cử viên là nữ. Trong đó, số ứng cử viên nữ do Trung ương giới thiệu là 12%.

Còn như nhận xét của TS Nguyễn Thị Thu Hà, Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương, việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về bình đẳng giới còn nhiều bất cập, thiếu những biện pháp cụ thể để giúp phụ nữ cân bằng giữa công việc gia đình và xã hội. Cấp ủy, chính quyền một số nơi chưa có chiến lược quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Cho nên, khi cần đến cơ cấu nữ mới “đốt đuốc” đi tìm. Lúc này, người trẻ thì chưa qua đào tạo, chưa đủ tiêu chuẩn, không trong cơ cấu; người đã qua đào tạo cơ bản, đủ điều kiện, tiêu biểu thì không còn trong độ tuổi. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội chưa cao còn phụ thuộc vào sự lựa chọn của cử tri. Một bộ phận cử tri chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải có tỷ lệ thích đáng phụ nữ tham gia Quốc hội, HĐND các cấp cho nên không bỏ phiếu cho phụ nữ. Ngay cả nữ cử tri, cũng chưa nhận thấy vai trò của nữ đại biểu sẽ đại diện cho phái mình, vì vậy, cũng chưa ủng hộ cho ứng cử viên nữ.

Hướng tới bình đẳng thực chất

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương, đánh giá, tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan dân cử chính là một trong những mục tiêu phấn đấu của bình đẳng thực chất, giúp bảo đảm cho việc tham gia quyết định chính sách, đặc biệt là các chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới, các chính sách bảo vệ quyền con người, về văn hóa, giáo dục, các vấn đề xã hội và môi trường. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nữ giới muốn có được tiếng nói quyết định cần phải có ít nhất 30% đại diện trong bộ máy nhà nước.

Bà Mai cho biết, nếu như nhiệm kỳ trước của Quốc hội có khoảng 15 đạo luật được xem xét lồng ghép giới, thì đến nhiệm kỳ này, đã có 40 đạo luật được xem xét lồng ghép giới tại Quốc hội. Điều đó cho thấy mức độ quan tâm đến bình đẳng giới ngày càng tăng lên. Năm báo cáo về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới đã trình ra Quốc hội. Trong năm nay, sẽ có báo cáo cuối cùng để đánh giá về mục tiêu bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia bình đẳng giới tại Việt Nam. Đây là những tác động góp phần cho công tác bình đẳng giới ở nước ta.

Bà Mai nêu thực tế, sự hạn chế của phụ nữ trong tham gia vào các cơ quan dân cử không hẳn do không đủ năng lực, mà còn do các yếu tố thuộc về nhận thức giới và các yếu tố khách quan khác.

Trong quá trình khắc phục những hạn chế này, các cơ quan truyền thông đóng vai trò quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới, thúc đẩy sự ủng hộ phụ nữ tham gia mạnh mẽ hơn vào lĩnh vực chính trị. Do đó, công tác truyền thông về bình đẳng giới, ủng hộ sự tham gia của phụ nữ trong quá trình bầu cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp được tăng cường với các nội dung trọng tâm như các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý; các quy định của Luật Bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, trong đó có quy định có ít nhất 35% phụ nữ trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, HĐND; tuyên truyền vai trò và những đóng góp quan trọng của phụ nữ trong quá trình phát triển đất nước và những tấm gương phụ nữ tiêu biểu trong công tác lãnh đạo, quản lý...

Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Bùi Thị Thanh chia sẻ, một trong những kinh nghiệm của nhiều địa phương là phải dự kiến số lượng phụ nữ ứng cử một cách rộng rãi ngay từ hiệp thương lần thứ nhất để lựa chọn dần đến hội nghị hiệp thương lần thứ ba, số đại biểu nữ vẫn bảo đảm một tỷ lệ thích hợp và kết quả trúng cử không chỉ đáp ứng được chỉ tiêu đề ra mà còn có khả năng cao hơn.

Bà Thanh đề xuất, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực HĐND các cấp, trong quá trình dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người ứng cử, cần quán triệt sâu sắc chủ trương bình đẳng giới. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị được dự kiến phân bổ người ứng cử phải là những nơi có nhiều điều kiện để có thể giới thiệu người ứng cử là nữ. Bảo đảm cân bằng về giới tính khi phân bổ số lượng các ứng cử viên, các ứng cử viên nữ không gánh quá nhiều cơ cấu.

* Theo thống kê của Liên minh Nghị viện Thế giới, với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII đạt 24,4%, Việt Nam đang xếp thứ 54/190 quốc gia được xếp hạng trên thế giới, đứng thứ tư trong 10 nước Đông Nam Á có nghị viện (sau Đông Timor, Philippines và Lào).

Anh Chi, http://www.nhandan.com.vn/ (MH); Cập nhật: 29/02/2016

 


Phần mềm giao nhận logistic